Những đứa con của nửa đêm
Phan_43
... Giữa một ngôi làng hoàn toàn bỏ hoang gồm những túp lều tranh, vách trát bùn trộn phân bò - giữa một khu dân cư bị ruồng rẫy, đến cả lũ gà cũng đã bỏ đi - Ayooba Shaheed Farooq ngồi than thân trách phận. Bị điếc vì thứ bùn độc của rừng mưa, một sự tàn tật lúc này bắt đầu làm họ ức chế đáng kể khi những giọng nói cay độc của rừng già không còn lởn vởn trong không khí, họ thở ra những lời than vãn, tất cả tranh nhau nói, chẳng ai nghe ai; buddha, tuy vậy, buộc phải lắng nghe tất cả: nghe Ayooba, người đứng úp mặt vào góc một gian phòng trống trơn, tóc bám đầy mạng nhện, rền rĩ “Tai tôi tai tôi, như có ong vo ve ở trong ấy,” nghe Farooq, người dằn dỗi hét lên, “Rốt cuộc, tại ai? - Ai, có cái mũi cái đếch gì cũng đánh hơi được? Ai bảo Đường kia, và đường kia? – Và rồi ai, ai sẽ tin? – về khu rừng và ngôi đền và lũ rắn trong suốt? - Chuyện thế kia mà, Allah, buddha, bọn tao nên bắn mày luôn-và-ngay!” Trong khi Shaheed, yếu ớt, “Tao đói.” Một lần nữa quay về thế giới thực, họ đã quên mất những bài học của rừng già, và Ayooba, “Tay tao! Allah, trời, cánh tay khô quắt của tao! Con ma ấy, rỉ nước vào...!” Và Shaheed, “Bọn đào ngũ, họ sẽ bảo thế - tay trắng, không tù binh, sau ngần ấy tháng! - Allah, khéo sẽ có tòa án binh, anh nghĩ sao, buddha?” Và Farooq, “Đồ chó đẻ, nhìn xem mày đã đẩy bọn tao đến đâu! Ôi Chúa ơi, quân phục của bọn tao! Mày nhìn đi, buddha - lôi-thôi-rách-rưới như một lũ ăn mày! Thử nghĩ xem ngài Chuẩn tướng - và tay Najmuddin ấy - tao thề trên đầu mẹ tao là tao không - tao không phải là đồ hèn! Không!’’ Và Shaheed, người đang giết kiến rồi giơ tay lên liếm, “Nhưng mà, làm thế nào để quay lại? Ai biết họ ở đâu, mà chắc gì đã còn ở đây? Rồi còn bọn Mukti Bahani nữa - pằng!pằng! bọn nó từ chỗ nấp bắn ra, thế là mày chết! Chết, như một con kiến!” Nhưng Farooq đang tiếp tục, “Mà không chỉ quân phục, trời ơi, còn tóc nữa! Đây có còn là đầu nhà binh nữa không? Đây, dài kinh người, rủ xuống tai như một búi giun? Cái đầu đàn bà này? Allah, họ sẽ xử tử bọn mình - bắt đứng dựa tường rồi pằng!pằng! - mày cứ chờ xem!” Nhưng giờ Ayooba-xe- tăng đang trấn tĩnh lại; Ayooba lấy tay bưng mặt; Ayooba lầm rầm với chính mình, “Hỡi ôi, hỡi ôi. Tao đến đây để chiến đấu với bọn Hindu ăn chay khốn kiếp. Còn đây, là chuyện hoàn toàn khác. Một chuyện quá sức tồi tệ.”
Khi ấy vào độ tháng Mười một; họ đang đi khá chậm, ngược lên phía Bắc Bắc Bắc, qua những trang báo phất phơ in một thứ văn tự vòng vèo kỳ quái, qua những đồng không nhà trống, thỉnh thoảng lại qua một bà cụ gùi một bó củi trên vai, hoặc một nhóm con nít tám tuổi với cái đói láo liên trong mắt và sự đe dọa của dao găm trong túi, và được nghe chuyện Mukti Bahini âm thầm di chuyển trên vùng đất mờ mịt khói này ra sao, những viên đạn vo ve bay đến như ong- từ-trên-trời-rơi-xuống... giờ đã đến thời điểm bước ngoặt, và Farooq, “Nếu không phải tại mày, buddha, Allah, đồ quái thai mắt xanh như ngoại quốc, Chúa ơi, yaar, mày hôi quá!"
Chúng tôi đều hôi: Shaheed, người đang đi (bằng cái gót ủng xơ xác) một con bọ cạp dưới nền đất bẩn thỉu của túp lều bỏ hoang; Farooq, đang lùng tìm một cách lố bịch một con dao để cắt tóc; Ayooba, đang gục đầu vào góc lều trong khi một con nhện bò dọc đỉnh đầu gã; và cả buddha nữa: buddha, kẻ tỏa mùi hôi ngất giời, đang nắm chặt cái ống nhổ xỉn màu trong tay phải, và cố gắng nhớ lại tên mình. Và chỉ gọi ra được các biệt danh: Thò Lò, Mặt Nhọ, Hói, Cả Khịt, Mảnh Trăng.
... Gã ngồi xếp bằng giữa cơn bão khóc than của nỗi sợ hãi trong lòng đồng bạn, cố ép mình nhớ lại; nhưng không, không ăn thua. Và cuối cùng buddha, quật cái ống nhổ xuống nền đất, hét lên với những đôi tai điếc: “Thật không - KHÔNG - CÔNG BẰNG!”
Giữa đống đổ nát của chiến tranh, tôi khám phá ra sự công-bằng-và-bất-công. Bất công có mùi như hành tây; mùi hăng của nó làm tôi trào nước mắt. Nghẹt trong hương vị cay đắng của sự bất công, tôi nhớ lại Jamila Ca sĩ đã cúi xuống bên giường bệnh - của ai? tên gì? - ra sao, đám mề-đay-và-sao cũng có mặt thế nào - em gái tôi - không, không phải em tôi! cô ta - cô ta đã nói, “Anh ơi, em phải đi xa đi hát phục vụ tổ quốc; bây giờ Quân đội sẽ trông nom anh - vì em, mọi người sẽ chăm sóc anh rất, rất chu đáo.” Cô ta đeo mạng; từ sau lớp gấm thêu kim tuyến vàng-và-trắng tôi ngửi thấy nụ cười phản bội của cô ta; qua tấm sa che mặt cô ta đặt lên lông mày tôi nụ hôn phục hận; thế rồi cô ta, người luôn giáng đòn báo thù khủng khiếp lên đầu những kẻ yêu cô ta nhất, vứt tôi lại trong vòng tay thương hại của đám mề-đay-và-sao... và sau sự phản bội của Jamila, tôi nhớ đến sự tẩy chay tôi phải chịu dưới tay Evie Burns; rồi hai cuộc lưu đày, rồi cú lừa dã ngoại; và cả một núi đồ sộ những sự kiện phi lý giày vò đời tôi; và giờ, tôi khóc hận mũi-dưa-chuột, mặt nhọ, chân vòng kiềng, sừng-thái-dương, đầu sư cọ, ngón-tay-cụt, một-tai-điếc, và cái ống nhổ làm tê liệt, tẩy não; giờ tôi khóc như mưa, nhưng cái tên vẫn lẩn tránh tôi, và tôi lại thét to - “Không công bằng; không công bằng, KHÔNG CÔNG BẰNG!” Và, thật bất ngờ, Ayooba-xe-tăng từ góc nhà bước ra; Ayooba, có lẽ đang nhớ lại chính lần suy sụp của gã trong rừng Sundarbarns, ngồi xuống trước mặt và quàng cánh tay lành lặn của gã lên cổ tôi. Tôi chấp nhận sự vỗ về của gã; tôi khóc lên áo gã; nhưng rồi một con ong xuất hiện, vo ve bay đến; trong khi gã ngồi quay lưng vào ô cửa sổ không kính của ngôi nhà, có gì đó rít lên trong không khí oi nồng; trong khi gã bảo, “Coi nào, buddha - thôi mà, buddha - nào, nào!” và trong khi một đàn ong khác, đàn ong của bệnh điếc, vo ve trong tai gã, có gì đó chích vào cổ gã. Gã ọc lên một tiếng sâu trong cổ họng rồi gục lên người tôi. Viên đạn bắn tỉa đã giết chết Ayooba Baloch lẽ ra đã xuyên qua đầu tôi, nếu gã không ngồi đó. Bằng cái chết, gã đã cứu mạng tôi.
Quên đi những nhục nhã trong quá khứ; gạt sang một bên công-bằng-với-bất-công, và thứ-gì-chữa-không-được-thì-phải-chịu, tôi bò ra từ bên dưới xác Ayooba-xe-tăng; trong khi Farooq, “Ôi Chúa Ôi Chúa Ôi!” còn Shaheed, “Allah, không biết súng của tao có còn...” Và Farooq lại “Ôi Chúa Ôi! Ôi Chúa, làm sao biết thằng chó đẻ ấy nấp ở đâu...!” Riêng Shaheed, y như trong phim, đứng áp sát bức tường cạnh cửa sổ. Tại ba vị trí: tôi ở dưới sàn, Farooq co rúm trong góc nhà, Shaheed dựa lưng vào lớp vữa trộn phân bò: chúng tôi chờ đợi, trong bất lực, xem điều gì sẽ xảy ra.
Không có phát súng thứ hai; có lẽ tên bắn tỉa, không nắm được quân số kẻ thù nấp trong ngôi nhà vách bùn, chỉ bắn một phát rồi chuồn. Ba chúng tôi tiếp tục nấp trong ngôi nhà suốt một ngày một đêm, cho đến khi xác Ayooba Baloch bắt đầu đòi được xử lý. Trước khi đi, chúng tôi tìm cuốc chim, rồi chôn cất gã... Và sau này, khi quân Ấn đến, chẳng còn Ayooba Baloch để chào đón họ với lý thuyết vì sự ưu việt của thịt so với rau; chẳng còn Ayooba xông ra đấm đá, miệng hô, “Binh! Bốp! Hự!!”
Có lẽ như vậy cũng tốt.
... Và vào khoảng tháng Mười hai, ba người bọn tôi, cưỡi xe đạp ăn cắp, đi qua một cánh đồng nơi từ đó có thể nhìn thấy thành phố Dacca ở phía chân trời; một cánh đồng trồng những hoa màu hết sức kỳ quái, bốc ra một mùi hết sức buồn nôn, đến nỗi chúng tôi không thể ngồi vững trên xe. Tụt xuống trước khi ngã khỏi xe, chúng tôi tiến vào cánh đồng khủng khiếp ấy.
Một người nông dân đang tha thẩn mót đồng nát, vừa sục sạo vừa huýt sáo, lưng đeo một cái bị cói ngoại cỡ. Các khớp ngón tay trắng bệch nắm chặt cái bị thể hiện một tâm trí kiên định, tiếng huýt sáo, chói tai nhưng réo rắt, cho thấy bác đang giữ tinh thần lạc quan. Tiếng huýt sáo vang vọng trên cánh đồng, nảy lên từ những chiếc mũ sắt rơi rụng, dội lại trống rỗng từ những nòng súng tắc bùn, chìm lỉm vào những chiếc giày rơi rụng của cánh đồng hoa màu rất rất kỳ quái, với một thứ mùi, như mùi của sự bất công, có khả năng làm buddha trào nước mắt. Hoa màu đều đã chết, bị một bệnh dịch lạ tấn công... và hầu hết, nhưng không phải tất cả, mặc quân phục Tây Pakistan. Ngoại trừ tiếng huýt sáo, âm thanh duy nhất là tiếng các đồ vật rơi vào tay nải báu vật của bác nông dân: thắt lưng, đồng hồ, răng vàng, gọng kính, cặp lồng, bi đông, giày bốt. Bác ta nhìn thấy họ và chạy về phía họ, cười cầu tài, nói liến thoắng bằng một giọng phỉnh phò mà chỉ một mình buddha phải nghe. Farooq và Shaheed đờ đẫn nhìn cánh đồng trong khi bác nông dân bắt đầu giải thích.
“Bắn nhau dữ lắm! Pằng!Pằng!”Bác giơ tay làm bộ bắn súng. Bác nói một thứ tiếng Hindi bập bẹ và cứng nhắc. “Bẩm các ngài! Quân Ấn đã đến! Bẩm vâng! Bẩm vâng.” - Khắp cánh đồng, loại hoa màu nọ đang rỉ thứ tủy xương giàu dinh dưỡng vào lòng đất trong khi bác ta, “Đừng bắn con, hỡi các ngài. Bẩm đừng. Con có tin - bẩm, tin nóng hổi! Quân Ấn đã đến! Jessore thất thủ rồi, thưa các ngài; chỉ một-bốn ngày nữa, Dacca, có-hay-không?” Buddha lắng nghe; đôi mắt buddha nhìn qua bác nông dân ra cánh đồng. “Khủng khiếp lắm, thưa ngài! Quân Ấn! Chúng có một tên lính dũng mãnh, giết chết sáu người một lúc, bẻ cổ kẻ thù khựcc-khựcc bằng đầu gối, thưa ngài? Đầu gối - đúng chữ ấy chứ ạ?” Bác vỗ đầu gối. “Con đã thấy, thưa ngài. Tận mắt, bẩm vâng! Hắn không chiến đấu bằng súng, hay gươm. Bằng đầu gối, và sáu cái cổ gãy khựcc-khựcc. Ôi Chúa.” Shaheed đang nôn mửa ra giữa đồng. Farooq Rashid lững thững đi đến đằng kia cánh đồng và đứng nhìn xác một cây xoài. “Chỉ một-hai tuần nữa nà chiến tranh kết thúc, thưa các ngài! Tất cả sẽ quay về. Giờ thì đi hết rồi, riêng con thì không, thưa các ngài. Quân lính truy lùng Bahini và giết nhiều rất nhiều, cả con trai con. Bẩm vâng, thưa ngài, bẩm quả có vậy.” Ánh mắt buddha trở nên mờ đục. Hắn nghe thấy tiếng rền của trọng pháo ở xa xa. Từng cột khói bốc lên nền trời tháng Mười hai không màu. Cánh đồng hoa màu kỳ quái vẫn nằm yên, không bị gió làm xao động... “Con ở lại, thưa các ngài. Nơi đây con thuộc tên chim muông cây cối. Bẩm vâng. Con tên Deshmukh; chuyên kinh doanh ý tưởng. Con bán nhiều đồ rất xịn. Ngài cần chứ? Thuốc táo bón, cực tốt, bẩm vâng. Con có. Đồng hồ phát quang trong bóng tối, ngài cần? Con cũng có. Rồi sách, bẩm vâng, rồi đồ chơi khăm. Trước con rất nổi tiếng ở Dacca. Bẩm vâng, thực đấy - Đừng bắn.”
Nhà buôn ý tưởng tiếp tục huyên thuyên, mời chào hết thứ này đến thứ khác, tỉ như chiếc thắt lưng thần kỳ cho phép người đeo nói tiếng Hindi - “Con đang đeo đây, thưa ngài, nói quá ngon, phỏng ạ? Quân Ấn nhiều mua lắm, họ nói đủ các thử tiếng khác nhau, đây là một vật Trời ban!” - và rồi bác ta đế ý thấy vật buddha cầm trên tay. “Bẩm ngài! Quả là tuyệt tác! Bằng bạc ạ? Đá quý ạ? Ngài đưa; con đưa đài phát thanh, máy ảnh, gần như hoạt động tốt, thưa ngài! Giá vậy quá hời, thưa ngài. Đổi lấy mỗi cái ổng nhổ, quá tốt. Bẩm vâng. Bẩm vâng, thưa ngài, ta vẫn phải sống; vẫn phải buôn bán, thưa ngài, phỏng ạ?”
“Hãy kể thêm,” buddha nói, “ về tên lính đánh nhau bằng đầu gối.”
Nhưng giờ, một lần nữa, một tiếng ong vo ve; ở đằng xa, đầu kia cánh đồng, có một người quỵ xuống, trán một người gục xuống đất như thể đang cầu nguyện; và ở giữa cánh đồng, một cây hoa màu, mới đây vẫn còn sống đủ để bắn, cũng trở nên hoàn toàn bất động. Shaheed Dar hét lên một cái tên:
“Farooq! Bớ Farooq!”
Nhưng Farooq nhất định không trả lời.
Sau này, khi hồi tưởng về cuộc chiến với chú Mustapha, buddha kể lại gã đã chạy vấp lên vấp xuống trên cánh đồng ứa rỉ tủy xương tới chỗ người đồng đội gục ngã ra sao; và, còn cách rất xa cái xác đang cầu nguyện của Farooq, gã đã bị chặn lại bởi bí mật khủng khiếp nhất của cánh đồng thế nào.
Ở giữa cánh đồng, có một kim tự tháp nhỏ. Kiến bò trên đó, nhưng đó không phải là tổ kiến. Kim tự tháp có sáu chân và ba đầu và, ở giữa, một khối bùng nhùng tạo thành bởi những mẩu thân người, những mảnh quân phục, những đoạn ruột và lấp ló những xương vỡ. Kim tự tháp vẫn còn sống. Một trong ba cái đầu bị chột mắt trái, di sản của một vụ cãi vã hồi bé. Một cái khác có mái tóc dính bết dầu bóng. Cái đầu thứ ba kỳ quái nhất: nó có hai hốc lõm sâu ở chỗ đáng ra là thái dương, hai hốc lõm hẳn là do kẹp forcep cùa bác sĩ phụ khoa gây ra vì kẹp cái đầu quá chặt khi đỡ đẻ... chính cái đầu thứ ba này nói chuyện với buddha:
“Ê mày,” nó nói, “Mày làm cái quái gì ở đây thế?”
Shaheed Dar thấy rõ kim tự tháp của quân địch đang trò chuyện với buddha; Shaheed, bỗng nhiên bị một sức mạnh phi lý thôi thúc, nhào lên người tôi và đè tôi ngã ngửa ra, quát, “Mày là ai? Gián điệp? Phản động? Hả? – Tại sao chúng lại biết mày là…?” Trong lúc Deshmukh, nhà buôn ý tưởng, xoắn xuýt một cách tội nghiệp quanh chúng tôi, “Bẩm các ngài! Đánh nhau như vậy là đủ lắm rồi. Bình tĩnh đi, thưa các ngài. Tôi xin đấy. Lạy Chúa.”
Kể cả Shaheed có tỉnh táo để lắng nghe, tôi khi đó cũng không thể cho gã biết điều sau này tôi đã tin là sự thật: rằng động cơ của cuộc chiến tranh này nhằm tái hợp tôi với cuộc đời cũ, nhằm đưa tôi gặp lại cố nhân. Sam Manekshaw hành quân đến Dacca để gặp người bạn cũ – con Cọp; và các chế độ liên kết tiếp tục hoạt động, bởi vì trên cánh đồng đang ứa rỉ tủy xương, tôi được nghe kể về cặp đầu gối sát thủ và được chào đón bởi mộ kim tự tháp ba đầu đang chết; và tại Dacca tôi sắp được gặp Parvati-phù-thủy.
Khi Shaheed bình tâm lại và buông tôi ra, kim tự tháp không còn nói chuyện được nữa. Cuối chiều hôm đó, chúng tôi tiếp tục hành trình về thủ đô. Deshmukh, nhà buôn ý tưởng, hoan hỉ gọi với theo: “Bẩm các ngài! Bẩm các ngài tội nghiệp! Ai biết được bao giờ một người sẽ chết? Ai, thưa các ngài, biết được vì sao?”
Chương 26: Sam và con Cọp
Đôi khi, núi non phải đổi dời để cố nhân được tái ngộ. Ngày 15 tháng Chín năm 1971, tại thủ đô của nước Bangladesh vừa giải phóng, Tiger (Cọp) Niazi đã đầu hàng ông bạn cố tri Sam Manekshaw; trong khi tôi, về phần mình, tự nộp mình vào vòng tay một cô gái có cặp mắt tròn xoe, mái tóc đuôi ngựa như một sợi thừng đen bóng, và đôi môi ngày ấy còn chưa có cái dáng bĩu ra đặc trưng của sau này. Hai cuộc tái ngộ này không đến một cách dễ dàng; và để tỏ lòng kính trọng đến tất cả những ai đã biến chúng thành sự thật, tôi sẽ tạm dừng câu chuyện, trong giây lát, nhằm làm rõ những tại sao và những vì đâu.
Vậy thì, hãy cho phép tôi được tuyệt đối minh xác: nếu Yahya Khan và Z.A. Bhutto không đồng mưu thực hiện cuộc chính biến ngày 25 tháng Ba, tôi đã không được mặc thường phục bay tới Dacca; và, trong mọi tình huống, Tướng Tiger Niazi cũng sẽ không có mặt tại đây vào tháng Mười hai. Để tiếp tục: việc Ấn Độ can thiệp vào xung đột ở Bangladesh cũng là kết quả của sự tương tác giữa những thế lực lớn lao. Có lẽ, nếu mười triệu người không vượt biên sang Ấn Độ, buộc nhà cầm quyền Delhi phải chi phí 200.000.000$ một tháng cho các trại tị nạn - cuộc chiến năm 1965, mà mục đích bí mật là tận diệt gia đình tôi, đã chỉ tiêu tốn của họ 70.000.000$! - các binh sĩ Ấn Độ, dưới sự chỉ huy của Tướng Sam, sẽ chẳng bao giờ vượt qua biên giới theo chiều ngược lại. Nhưng Ấn Độ đến còn vì nhiều động cơ khác: bởi tôi sắp được biết, từ các ảo thuật gia Cộng sản sinh sống dưới bóng Thánh đường Thứ Sáu ở Delhi, giới sarkar[1] tại Delhi hết sức quan ngại về ảnh hưởng đang suy giảm của Liên đoàn Awami của Mujib cũng như việc phong trào Mukti Bahini ngày càng lan rộng; Sam và con Cọp gặp nhau ở Dacca là để ngăn chặn Bahini gia tăng quyền lực. Vì thế nên, nếu không nhờ Mukti Bahini, có lẽ Parvati-phù-thủy cũng chẳng bao giờ tháp tùng quân Ấn trong chiến dịch “giải phóng” của họ... Nhưng đấy cũng chưa phải là một lời giải thích đầy đủ. Một nguyên nhân thứ ba buộc Ấn Độ phải can thiệp là do lo sợ tình trạng hỗn loạn ở Bangladesh, nếu không được khống chế kịp thời, sẽ lan rộng qua biên giới sang Tây Bengal; cho nên Sam và con Cọp, cũng như Parvati và tôi, phải mang ơn, ít ra là một phần, những yếu tố bất ổn của tình hình chính trị Tây Bengal về cuộc hội ngộ của chúng tôi: thất bại của con Cọp chỉ là sự mở đầu của một chiến dịch chống lại cánh Tả ở Calcutta và căn cứ địa của phe này.
[1] Tiếng Urdu, có nghĩa là người có quyền lực, địa vị.
Dù sao đi nữa, Ấn Độ đã đến; và sự thần tốc của cuộc hành quân này - bởi vì chỉ trong có ba tuần Pakistan đã mất một nửa hải quân, một phần ba lục quân, một phần tư không quân, và cuối cùng, sau khi con Cọp đầu hàng, hơn một nửa dân số của mình - một lần nữa lại có phần công sức của Mukti Bahini; bởi vì, có lẽ do ngây thơ, không nhận ra rằng việc Ấn Độ xuất quân vừa nhằm tấn công lực lượng chiếm đóng của Cánh Tây vừa là một nước cờ chiến thuật chống lại chính họ, quân Bahini đã mách nước cho Tướng Manekshaw về cách hành binh của quân Pakistan, về các điểm mạnh và điểm yếu của con Cọp; và cả đóng góp của Ngài Chu Ân Lai, người đã từ chối (bất chấp sự van nài của Bhutto) cung cấp bất kỳ khoản viện trợ vật chất nào cho Pakistan trong cuộc chiến. Bị khước từ vũ khí Trung Quốc, Pakistan chiến đấu bằng súng Mỹ, xe tăng và máy bay Mỹ; Tổng thống Hoa Kỳ, một mình trên cả thế giới, quyết tâm “ngả” về phía Pakistan. Trong khi Henry A. Kissinger tranh cãi về trường hợp của Yahya Khan, chính ngài Yahya này đang bí mật thu xếp chuyến thăm nhà nước nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ đến Trung Quốc... thế nghĩa là có những thế lực ghê gớm đang vận động chống lại cuộc tái hợp của tôi với Parvati và Sam với con Cọp; nhưng bất chấp ngài Tổng thống ngả nghiêng, chỉ còn vỏn vẹn ba tuần nữa thôi tất cả sẽ kết thúc.
Vào đêm 14 tháng Mười hai, Shaheed Dar và buddha đi vòng quanh khu vực ngoại vi của thành Dacca đang bị vây hãm; nhưng cái mũi của buddha (quý vị chắc vẫn chưa quên) có khả năng đánh hơi vượt trội. Dưới sự chỉ dẫn của cái mũi có thể ngửi thấy an toàn và nguy hiểm, họ tìm được đường xuyên qua vòng vây của quân Ấn và tiến vào thành phố dưới sự yểm trợ của bóng tối. Trong khi họ lẩn lút đi qua những con phố không một bóng người ngoại trừ vài kẻ ăn xin chết đói, con Cọp thề sẽ chiến đấu đến người cuối cùng; nhưng hôm sau, ông ta lại đầu hàng. Điều chẳng ai biết: không rõ người cuối cùng này có cảm cái ơn tha mạng hay lại hậm hực vì lỡ mất cơ hội được vào vườn long não.
Thế là tôi đã trở lại cái thành phố nơi, trong những giờ phút cuối cùng trước những cuộc hội ngộ, Shaheed và tôi đã chứng kiến những điều không phải là thật, không thể là thật, vì các chàng trai của chúng ta không thể nào chẳng thể nào hành động đồi bại đến thế; chúng tôi nhìn thấy những người đàn ông đeo kính, đầu hình trứng[2] bị bắn trong các ngõ phố, chúng tôi chứng kiến giới trí thức của thành phổ bị thảm sát hàng trăm người một, nhưng chuyện ấy không có thật bởi vì nó không thể là thật, con Cọp, nói cho cùng, là một tay quân tử, trong khi các jawan của chúng ta đều đáng mười tên babu, chúng tôi đi giữa ảo cảnh hoang đường này của đêm, nấp sau những ô cửa khi lửa nở bừng như những vườn hoa, làm tôi nhớ lại cái cách con Khỉ Đồng thường châm lửa đốt giày để tìm kiếm sự chú ý, có những người bị cắt cổ và vùi dưới những nấm mồ không bia, và Shaheed bắt đầu, “Không, buddha - kinh khủng quá, Allah, em không thế tin vào mắt mình - không, không phải thế, làm sao có thể - buddha, anh nói đi, cái gì đã lọt vào mắt em thế này?” Và sau cùng buddha lên tiếng, biết rằng Shaheed không nghe được: “Ôi, Shaheeda,” gã nói, thể hiện một sự chán ghét sâu xa, “con người đôi khi phải chọn cái mình thấy và cái mình không thấy; quay mặt đi, quay mặt đi đừng nhìn nữa.” Nhưng giờ Shaheed đang trân trối nhìn một maidan[3] nơi các nữ bác sĩ bị đâm bằng lưỡi lê trước khi bị hiếp, rồi bị hiếp lần nữa trước khi bị bắn. Trên đầu họ và sau lưng họ, ngọn tháp trắng lạnh củạ một thánh đường mù lòa nhìn xuống cảnh tượng ấy.
[2] Egghead (đầu trứng) là một từ lóng chỉ giới tri thức. Rushdie rất thích dùng chữ này (xem thêm Haroun và Biển truyện, Nhã Nam và NXB Văn học liên kết xuất bản năm 2010).
[3] Tiếng Urdu, nghĩa là quảng trường.
Như thể cự nói với mình, buddha lẩm bẩm, “Cái cần nhất lúc này là tìm cách bảo toàn tính mạng; Chúa mới biết vì sao chúng ta quay lại.” Gã bước qua ngưỡng cửa một ngôi nhà bỏ hoang – lớp vỏ vỡ nát, bong tróc của một kiến trúc đồ sộ từng chứa một quán trà, một một tiệm sửa xe đạp, một nhà chứa và một chiếu nghỉ bé tí chắc hẳn từng là chỗ ngồi của một công chứng viên, vì vẫn còn đó chiếc bàn thấp nơi bác ta đã vứt lại một cặp kính nửa tròng, còn đó những con dấu và xấp tem đã một thời cho phép bác không chỉ là một ông già vô danh - tem và dấu biến bác thành trọng tài phân định cái gì là thật và cái gì không. Người công chứng viên vắng mặt, vì thế tôi không thể yêu cầu bác chứng thực những gì đã xảy ra, tôi không thể đưa ra một lời khai có tuyên thệ; nhưng trên manh chiếu phía sau cái bàn của bác là một chiếc áo rộng và suôn như một tấm djellabah, và không chần chừ gì nữa tôi trút bỏ quân phục, kể cả phù hiệu chó cái của đội CUTIA, và biến thành một người vô danh, một kẻ đào ngũ, giữa một thành phố mà ngôn ngữ của nó tôi không hề biết.
Shaheed Dar, tuy vậy, vẫn đứng ngoài phố; dưới tia sáng ban mai đầu tiên, gã chứng kiến quân lính lẩn lút rút khỏi những-điều-chưa-hề-xảy-ra; và rồi quả lựu đạn bay đến. Tôi, buddha, vẫn ở trong ngôi nhà trống; nhưng Shaheed thì không có được sự bảo vệ của những bức tường.
Khó mà biết tại sao thế nào do ai; nhưng có điều chắc chắn là quả lựu đạn đã được ném ra. Vào khoảnh khắc sau cùng của sinh mệnh chưa-bị-xẻ-đôi của gã, Shaheed đột nhiên không thể cưỡng nổi cơn thôi thúc phải nhìn lên... sau đó, ở chuồng bồ câu của người muezzin, gã bảo buddha, “Lạ lắm, Allah - quả lựu ấy - trong đầu em, cứ như thế, chưa bao giờ nó to và sáng thế - anh biết đấy, buddha, như một cái bóng đèn - Allah, em biết làm gì, chỉ biết nhìn thôi!” - Và đúng thế, nó đấy, lơ lửng trên đầu gã, quả lựu đạn trong giấc mơ của gã, lơ lửng ngay trên đầu gã, rồi rơi rơi, phát nổ ngang lưng gã, thổi bay đôi chân gã đốn một phần nào đó của thành phố.
Khi tôi chạy đến, Shaheed vẫn còn tỉnh, dù bị cắt đôi người, và chỉ tay, “Đưa em lên đó, buddha, em muốn lên em muốn,” thế nên tôi mang thứ giờ đây chỉ còn là một nửa gã trai (và do vậy khá nhẹ) theo cây cầu thang xoắn ốc hẹp leo lên đỉnh ngọn tháp trắng lạnh, nơi Shaheed lảm nhảm về những bóng đèn trong lúc hai đàn kiến đen và kiến đỏ đánh nhau giành một con gián chết, giao tranh dữ dội dọc theo những rãnh nhỏ trên sàn bê tông trát dối bằng bay. Bên dưới, giữa những ngôi nhà cháy đen, kính vỡ và khói mù, những con người nhỏ như kiến đang ló ra, chuẩn bị cho hòa bình; tuy nhiên, bầy kiến, phớt lờ những kẻ-giống-kiến, tiếp tục chiến đấu. Và buddha: gã đứng yên ánh mắt mờ đục nhìn xuống chung quanh, đặt mình vào vị trí giữa nửa người trên của Shaheed và món đồ vật duy nhất trong cái tổ chim này: một cái bàn thấp ở trên đặt một chiếc máy quay đĩa nối với loa phóng thanh. Buddha, đứng chắn cho người bạn đồng hành còn một nửa khỏi vỡ mộng vì nhìn thấy vị muezzin cơ khí hóa này (chủ nhân của một tiếng gọi cầu nguyện sẽ luôn bị vấp ở những chỗ giống nhau), rút trong vạt áo choàng lùng thùng ra một vật lấp lánh, rồi hướng ánh nhìn mờ đục của gã vào cái ống nhổ bạc. Chìm trong dòng suy tưởng, gã giật mình khi tiếng thét vang lên; ngẩng nhìn và thấy một con gián bị vứt bỏ. (Máu đã rỉ theo những rãnh bê tông; bầy kiến, lần theo vệt sẫm màu sền sệt này, đã tìm đến nguồn chất lỏng đang ứa ra, và Shaheed đã bày tỏ sự phẫn nộ khi trở thành nạn nhân của không chỉ một, mà hai cuộc chiến tranh.)
Chạy đến giải cứu, đôi chân nhảy múa trên bầy kiến, buddha vô tình huých khuỷu tay vào một cái công tắc; hệ thống loa được bật lên, và kể từ đó người dân Dacca sẽ không bao giờ quên chuyện một thánh đường đã rú lên nỗi đau đớn hãi hùng của chiến tranh.
Sau một lúc, im lặng. Đầu Shaheed gục về phía trước. Còn buddha, sợ bị phát hiện, liền giấu cái ống nhổ đi và leo xuống thành phố khi Quân đội Ấn Độ tiến vào; bỏ lại Shaheed, người đã không còn lấy thế làm phiền, để giúp vui cho bữa tiệc hòa giải của loài kiến, tôi hòa mình vào phố phường buổi sớm để chào đón Tướng Sam.
Lúc ở trên tháp, tôi nhìn cái ống nhổ bằng ánh mắt mờ đục; nhưng tâm trí của buddha khi đấy không trống rỗng. Nó chứa đựng ba chữ, mà nửa trên của Shaheed cũng liên tục nhắc lại, cho tới khi bầy kiến: chính ba chữ từng, sặc sụa mùi hành, đã làm tôi nức nở trên vai Ayooba Baloch - cho đến khi con ong, vo ve... “Không công bằng,” buddha nghĩ, và rồi, như một đứa trẻ, nhắc đi nhắc lại, “Không công bằng,” hết lần này đến lần khác.
Shaheed, bằng việc hoàn thành tâm nguyện thiết tha của người cha, cuối cùng đã xứng với tên gã; nhưng buddha thì vẫn không thể nhớ nổi tên mình.
Buddha đã tìm lại tên gã ra sao: Ngày xưa, lâu rồi, vào một ngày độc lập khác, cả thế giới mang màu xanh và nghệ. Sớm nay, ba màu chủ đạo là xanh, đỏ và vàng. Và các thành phố reo vang “Jai Bangla!” Và phụ nữ cất lên tiếng hát “Bengal Hoàng Kim Của Chúng Ta”, làm tim họ mê cuồng một nỗi hân hoan... tại trung tâm thành phố, trên bục dành cho kẻ chiến bại, tướng Tiger Niazi chờ đợi Tướng Manekshaw. (Lý lịch trích ngang: Sam là người Parsee. Ông ta quê ở Bombay. Dân Bombay hôm ấy được một bữa vui ra trò.) Giữa biển màu xanh và đỏ và vàng, buddha trong tấm áo choàng vô danh lùng thùng bị đám đông xô đẩy; thế rồi, Ấn Độ đến. Ấn Độ, dẫn đầu là Sam.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian